Nguyên nhân tục đốt
vàng mã
(PGVN) Tục đốt vàng mã bắt
đầu từ đâu và Phật giáo quan niệm như thế nào về việc đốt vàng mã,
phatgiao.org.vn trân trọng giới thiệu bài viết cách đây hơn năm mươi năm của
một bậc danh Tăng ở miền Bắc, Hòa thượng Tố Liên về vấn đề này
Với quan niệm thông thường,
sau cái chết, con người cũng có một đời sống, cũng có các nhu
cầu như khi đang ở dương thế. Một số người vì quá thương tiếc người thân đã
mất, sắm đủ thứ vàng mã để đốt cúng nhân ngày giỗ hoặc các dịp lễ như
Rằm tháng Bảy, Tết Nguyên đán…, để người ở đã chết sử dụng ở
cõi âm.
Việc làm đó đôi khi thái quá, người ta có thể sắm vàng mã với hình dáng nhà
lầu, xe hơi, máy lạnh, điện thoại di động, tiền mô phỏng đô- la Mỹ, v.v…để cúng
cho người đã chết. Tục
đốt vàng mã bắt đầu từ đâu và Phật giáo quan niệm như thế nào về việc đốt vàng
mã,
phatgiao.org.vn trân trọng giới thiệu bài viết cách đây hơn năm mươi năm của một
bậc danh Tăng ở miền Bắc, Hòa thượng Tố Liên về vấn đề này. Phàm ở đời,
cái gì cũng phải có nguyên nhân mới có kết quả, dưới đây sẽ biện bạch rõ cái
nguyên nhân của tục đốt vàng mã.
Đọc kinh Dịch nhà Nho, chúng ta thấy rằng tục
chôn người chết của nước Trung Hoa về đời thượng cổ, một khi có người chết cứ
để thế đem chôn, không quan không ván, lại cũng không khanh phần mộ chí chi cả.
Đến đời vua Hoàng Đế (267 trước Tây lịch) cho rằng con cháu đối với ông bà, cha
mẹ trong việc mai táng cẩu thả như thế là thiếu bổn phận, mới sai ông Xích
Xương sáng chế ra quan, quách để chôn cất. Trải qua đời Hoàng Đế đến đời Đường
Ngu, cái tục lệ chôn cất người chết chỉ có thế thôi.
Nối nhà Ngu là nhà Hạ (2205 trước Tây lịch),
người Trung Hoa mới bắt đầu dùng đất sét nặn làm mâm bát, dùng tre gỗ làm nhạc
khí, như chuông khánh,đàn sáo v.v…để đem theo người chết. Các đồ vật đó được
gọi là minh khí, hoặc gọi là quỹ khí, tức là những đồ vật đem chôn theo cho
thần hồn người chết dùng ở âm phủ, lễ nhạc đối với người chết bắt đầu có từ
đấy. Rồi đã chế ra đồ dùng cho người chết, tất phải có người hầu hạ người chét,
người ta mới lại chế ra người bù nhìn bằng gỗ đem chôn theo với người chết. Đến
đời nhà Ân (1765 trước Tây lịch), lại không dùng đồ mâm bát đồ đất và nhạc khí
bằng tre gỗ để chôn theo người chết nữa. Thay vào cái đồ tế khí, dùng toàn đồ
thật chôn theo.
Đời nhà Chu (1122 trước Tây lịch), người Trung
Quốc đã bắt đầu văn minh; cố nhiên lễ nhạc đối với người chết cũng được ăn nhịp
mà tiến bộ, giữa người chết với người chết đã được người sống phân ra giai cấp
sang, hèn trong việc lễ nghi chôn cất. Số là từ vua cho đến các quan lớn khi
chết đi, sẽ được dùng cả đồ vật giả theo lệ nhà Hạ, đồ vật thật theo lệ nhà Ân
để chôn theo các vua chúa đã chết; còn từ hạng sĩ phu tới bình dân, khi chết
chỉ được chôn theo độc nhất một thứ đồ giả thôi.
Nếu người hèn hạ mà dùng lễ nghi ngang với người sang tức khắc phải tội “Tiếm
lễ”. Không những thế mà thôi, dã man nhất, độc ác nhất là người ta còn bịa đặt
ra những tuần táng, nghĩa là khi các vua và các quan lớn chết đi, từ vợ con đến
bộ hạ, đồ yêu quý của họ khi còn sống, sẽ phải đem chôn sống để làm đồ dùng khi
đã chết. Việc này chúng ta được thấy sự thật đã được chép ở sách Tả truyện rằng
vua Tần Mục Công tên là Hiếu Nhân chết, ba anh em họ Tứ Xa là Yểm Tục, Trọng
Hành và Chàm Hổ đều bị chôn sống theo Mục Công vì Mục Công khi còn sống rất yêu
quý ba anh em họ Tứ Xa đều là những người hiền đức gấp trăm nghìn người khác,
trời đất ơi! Sao nở đem chôn sống để đi theo người đã tận số là Mục Công.
Nếu ba trăm người như chúng tôi này được chết
theo Mục Công để thế mệnh cho ba người hiền đức ấy, chúng tôi rất vui lòng mà
chết thay”. Về sau người ta cũng biết đem người sống chôn theo với người chết
là vô nhân đạo, mới chế ra người có “Sô linh”, sau vì người cỏ không được mỹ
thuật, người ta lại dùng đồ gỗ “Mộc ngẫu” như trước. Sách Trang Tử chép rằng:
“Vua Mục Vương nhà Chu (1001 trước Tây lịch) có người tên là Yến Sư chế ra
người cỏ để chôn theo người chết”.
Đức Khổng Từ đọc đến chuyện này liền nổi lòng phẩn uất mà thống mạ rằng: “Kẻ
nào sinh ra tục chôn người gỗ theo với người chết là bất nhân”. Thầy Mạnh Tử
cũng ác cảm với tục hình nhân thế mệnh mà nguyền một câu độc rằng: “Kẻ nào dùng
người bù nhìn là tuyệt tự”.
Đến thời nhà Hán, giới trí thức Nho học cảm
động với lời tuyệt cự thống thiết của ngài Khổng, Mạnh trong tục lệ dùng người
sống chôn theo với người chết, mới bỏ tục Tuần táng, không dùng người sống chôn
theo với người chết nữa, nhưng lại làm ra nhà mồ để cho vợ, con, tôi tớ người
đã chết ra để ấp mộ.
Còn các thức đồ ăn mặc, hành dùng của người chết kia, khi còn sống dùng những
thức gì, khi chết cũng đem chôn theo hết. Ngôi nhà mồ kia muốn cho thêm oai vệ,
người ta lại đục phỗng đá, voi, ngựa đá để bài trí chung quanh phần mộ nữa.
Đến đây chúng ta sẽ lại tìm thấy nguyên nhân
của tục đốt vàng mã giấy. Đời Hán, đến năm Nguyên Hưng nguyên niên (105), ông
Thái Linh bắt đầu lấy vỏ cây dó và rẻ rách, lưới rách đem chế ra giấy, vì đã có
giấy, ông Vương Dũ liền chế ra vàng bạc, quần áo v.v… đều bằng đồ giấy để cúng
rồi đốt đi để thay thế cho vàng bạc và đồ dùng thật trong khi tang ma, tế lễ. Sách Thông Giám cương mục có chép: “Vị vua
Huyền Tôn mê thuật quỹ thần mới dùng ông Vương Dũ làm quan Thái thường bác sỹ
để coi việc chế vàng mã dùng trong khi nhà vua có tế lễ. Chúng ta có thể liệt
Vương Dũ vào hàng thủy tổ nghề vàng mã được”.dot vang ma
Đức Phật Thích Ca không hề dạy đốt vàng mã để cúng gia tiên. Tại sao ngày Rằm
tháng Bảy là ngày lễ trọng thể của
Phật giáo mà thấy
một số tín đồ nhà Phật đốt rất nhiều vàng mã để cúng gia tiên. Chính nghĩa ngày
Rằm tháng Bảy của Phật giáo là thế này: Ngài Mục Kiền Liên là bậc đại đệ tử của
Đức Phật Thích Ca.
Ngài đã tu chứng được sáu phép thần thông ; mắt trông thấy thân mẫu ngài là bà
Thanh Đề bị đày đọa ỏ địa ngục, mà ngài không sao cứu được mới cầu cứu đến đức
Phật. Đức Phật dạy rằng: “Dù ông thần thông đến đâu chăng nữa, cũng không thể
cứu được tội nghiệp chothân mẫu của ông được. Ngày Rằm tháng Bảy sắp tới đây sẽ
là ngày của chư Phật hoan hỷ, ngày của chư Tăng hành đạo tự tứ. Ông phải chí
thành sắm lễ nghi trai đàn đem dâng cúng dường chư Tăng. Các ngài sẽ cầu nguyện
cho thân mẫu ông được giải thoát”.
Chính ý nghĩa của ngày Rắm tháng Bảy chỉ có
thế thôi, không hơn không kém. Chúng ta có ai thấy Phật dạy đốt vàng mã cúng
gia tiên và ngày Rằm tháng Bảy đâu? Tại sao lại có tục lệ mê tín dị đoan ấy?.
Nguyên nhân đốt vàng mã vào ngày Rằm tháng Bảy
là thế này: Triều cua Đại Tôn nhà Đường (762) nhằm lúc Phật giáo cực
thình ở Trung Quốc, vị sư tên là Đạo Tăng muốn cho dân chúng Trung Quốc vì ngày
Rằm tháng Bảy mà bồng bột theo Phật giáo, bèn lợi dụng tục đốt vàng mã của nhân
dân Trung Quốc vào tâu với vua Đại Tôn rằng: Rằm tháng Bảy là ngày của Diêm
vương ở âm phủ xét tội phúc thăng trầm , nhà vua nên thông sức cho thiên
hạ; trong việc lễ cúng gia tiên vào ngày Rằm tháng Bảy nên đốt nhiều vàng mã để
cúng biếu các vong nhân dùng.
Vua Đại Tôn đang muốn
được lòng dân nên rất hợp ý với lời tâu của Đại Tăng, liền hạ chiếu cho thiên
hạ, thế là nhân dân Trung Quốc lại được dịp thi nhau đốt vàng mã vào ngày Rằm
tháng Bảy để cúng gia tiên. Nhưng chẳng bao lâu việc đốt vàng mã vào ngày trọng
lễ của Phật giáo lại bị chư Tăng công kích bài trừ, cho nên cái lệ ngày Rằm
tháng Bảy không còn có chính nghĩa nữa.
Phần lớn dân chúng
Trung Quốc hồi đó, hầu tỉnh ngộ cùng nhau bỏ tục đốt vàng mã, làm cho các nhà
chuyên sinh sống về nghề nghiệp vàng mã gần như bị thất nghiệp, nhất là
Vương Luân, dòng dõi của Vương Dũ, người đã bịa đặt chế ra đồ vàng mã. Vương
Luân mới bàn cùng với các đồng nghiệp âm mưu phục hưng lại nghề nghiệp hàng mã
của bọn họ.
Một người giả cách ốm mấy hôm, rồi tin chết
được loan ra, còn cái xác giả chết kia lập tức được khâm liệm vào quan tài, đã
có lỗ hổng và sẵn sàng thức ăn, nước uống. Đương khi mọi người họ mạc, xóm làng
đến thăm viếng đông đúc, Vương Luân với một lũ người tức tưởi đem trăm nghìn thứ
đồ mà đến có cả hình nhân thế mạng nữa.
Đem đến để làm gì? Bày
đàn cúng các quan thiên phủ, địa phủ và nhân phủ. Chả! Chả! Phép quỷ thần mầu
nhiệm quá nhỉ! Thiêng liêng quá nhỉ! Khi mọi người đang suýt xoa khấn khứa,
bỗng trăm nghìn mắt như một, trông thấy hai năm rõ mười, cỗ quan tài rung động lên.
Bấy giờ, Vương Luân đã đứng sẵn bên quan tài.
Chàng giả cách chết kia cũng lò dò ngồi dậy, giả vờ ngơ, trông trước, trông
sau, mới bước từ quan tài ra với điệu bộ như người chết đi sống lại, rồi thuật
lại chuyện với công chúng rằng: “Các thần thánh trong Tam, Tứ Phủ vừa nhận được
hình nhân thế mạng cho tôi, với tiền bạc và đồ mã, nên mới tha cho ba hồn, bảy
vía của tôi được phục sinh về nhân thế”. Hiển nhiên trăm nghìn mắt thấy, tai
nghe công chúng lúc đó ai chả nhận thấy rằng, thế này ra hình nhân có thể thế
mệnh được thực và thánh thần trong Tam, Tứ phủ cùng ăn lễ đồ mã, tăng phúc,
giảm thọ và miễn cho sống thêm thực.
Từ đấy các nghề hàng mã lại được phục hưng một
cách nhanh chóng vì rằng không những linh hồn các gia tiên dùng vàng mã đến cả
thiên, địa,quỷ,thần trong Tam, Tứ phủ cũng phải tiêu dùng đến đồ vàng mã nữa,
cố nhiên là vàng mã phải đắt hàng. Chuyện này còn chép rõ ràng ở sách Trực ngôn
cảnh giáo.
Chúng ta nên nhận thẳng rằng: “Bịa đặt ra tục mê tín, dị đoan, làm hình nhân
thế mạng vào lễ Tam, Tứ phủ để đầu độc mê tín đến ngày nay là bắt đầu từ người
Vương Luân, người Trung Quốc bị cái bả mê tín vàng mã do Vương Luân đầu độc đến
nay đã được 1847 năm (105-1952). Đến sự mê tín của dân tộc Việt Nam, chúng ta cũng chẳng kém thế,
vì chưng trước đây, người Trung Quốc đã nắm quyền đô hộ mình hơn 1.000 năm. Cho
nên phong tục của người Trung Quốc thế nào người mình cũng dập theo đúng khuôn
khổ như vậy, bất luận hay, dở, phải, trái, tà, chính. Đó là nguyên tính cẩu
thả, phụ họa của người mình”.
Ai cũng phải công nhận
tinh thần của dân tộc Việt Nam chúng ta lý do đều nhờ Phật giáo và Nho giáo đào
tạo nên cả. Xin hỏi giới trí thức Việt Nam hiện tại tìm thấy Phật giáo và Nho
giáo dạy về thuyết đốt vàng mã ở kinh sách nào?
Nếu các ngài tìm thấy, bần Tăng này xin can tâm vào địa ngục để chịu lấy tội
vong hữu.
Nếu không tìm thấy tục
đốt vàng mã do Phật giáo hay Nho giao truyền dạy, một lần nữa bần tăng thiết
tha yêu cầu các ngài bỏ tục vàng mã đi, lại sẽ khuyến hóa mọi người bỏ tục đốt
vàng mã đi, vì tục đốt vàng mã là do Vương Dũ và Vương Luân đầu độc dân Trung
Quốc làm cho dân Việt Nam chúng ta cũng bị hại lây.
Nay chúng ta cùng nhau triệt để bài trừ mê tín đốt vàng mã, quyết nhiên giữa dân tộc Việt Nam
này để dành cho chúng ta viên thành một công nghiệp kiến quốc vậỵ
Hòa thượng Tố Liên